Xét nghiệm gan bất thường trong bối cảnh uống rượu quá mức

 

NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
•  Kết quả xét nghiệm chức năng gan bất thường thường gặp ở những người không có triệu chứng và thường không tìm thấy nguyên nhân.
•  Mặc dù thuật ngữ là xét nghiệm chức năng gan nhưng điều này không thực sự đánh giá chức năng gan.
•  Hoạt tính của gamma-glutamyl transpetidase có thể tăng lên thứ phát do uống rượu quá mức nhưng cũng có thể cao do các nguyên nhân khác.
•  Tỷ lệ aspartate aminotransferase : alanine aminotransferase lớn hơn 2 : 1 có thể cho thấy bệnh gan thứ phát do rượu.
•  Bilirubin huyết thanh tăng trong viêm gan do rượu và có thể rất cao trong những trường hợp nặng.
• Tiền sử lâm sàng hữu ích hơn kết quả xét nghiệm trong việc phát hiện những người uống rượu quá mức.

1. Xét nghiệm chức năng gan

Thuật ngữ rộng này mô tả một nhóm các xét nghiệm được sử dụng trong thực hành lâm sàng để xác định bệnh gan, hiểu nguyên nhân gây vàng da, theo dõi diễn tiến của bệnh theo thời gian và phát hiện độc tính thứ phát do sử dụng thuốc. Mặc dù tên gọi như vậy nhưng một số trong những xét nghiệm này không đánh giá chức năng gan và có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố ngoài gan. Các xét nghiệm thường bao gồm:

Transaminases: aspartate aminotransferase (AST), alanine aminotransferase (ALT) tăng thứ
phát do tổn thương tế bào gan;

Bilirubin: một yếu tố đánh giá sự vận chuyển của gan;

Phosphatase kiềm (ALP): tăng lên trong tắc nghẽn đường mật;

Gamma-glutamyl transpeptidase (GGT): tăng lên trong tắc nghẽn đường mật và uống rượu
quá mức.

Albumin: một protein chính được gan tổng hợp.

Trị số albumin thấp là một đặc điểm của bệnh gan tiến triển. Cũng như với tất cả các xét  nghiệm khác, xác định thế nào là bình thường là điều khó khăn. Các trị số ở người khỏe mạnh không được phân bố bình thường và có thể bị ảnh hưởng bởi tuổi, giới tính, chủng tộc và khối lượng cơ thể. Do đó một người khỏe mạnh có thể có một kết quả xét nghiệm gan bất thường. Hơn nữa, mặc dù các xét nghiệm gan phản ánh chính xác bệnh gan nặng nhưng chúng có thể không cho thấy những bất thường nhẹ hoặc trung bình. Điều đã được mô tả rõ là những bệnh nhân bị nhiễm mỡ gan hoặc viêm gan C có thể có kết quả xét nghiệm gan bình thường.

 

2. Transaminase (ALT AST)

Cả ALT và AST được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán bệnh gan. ALT được tìm thấy ở gan nhưng mặc dù được phân bố rộng rãi trong phần còn lại của cơ thể, nó đặc hiệu đối với bệnh gan do hoạt tính thấp ở các cơ quan khác. AST hiện diện với lượng lớn ở gan và tim và ở một mức thấp hơn ở tụy, não, cơ xương và hồng cầu. Cả hai enzym thường hiện diện trong huyết thanh. AST huyết thanh cũng có thể có nguồn gốc từ ty thể (mAST) và nồng độ cao của mAST có thể được quan sát thấy trong tổn thương gan do rượu.

     Tổn thương gan cấp tính bất kể nguyên nhân dẫn đến sự tăng transaminase. Nồng độ rất cao (gấp 200 lần hoặc hơn) đã được quan sát thấy trong ngộ độc paracetamol, sốc và thiếu oxy máu nặng. Tỷ lệ AST : ALT cũng có thể cung cấp những gợi ý hữu ích về nguyên nhân của bệnh gan. Tỷ lệ AST : ALT lớn hơn 2 : 1 có thể cho thấy bệnh gan do rượu, trong khi tỷ lệ dưới 1 là điển hình hơn của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu hoặc viêm gan do virus.

 

3. Bilirubin

Bilirubin có nguồn gốc từ heme. Đa số (75%) của heme đến từ sự phân hủy hồng cầu trưởng thành. Ban đầu, bilirubin không được liên hợp và không hòa tan trong nước. Nó được vận chuyển vào máu, gắn kết với albumin. Sau đó bilirubin đi vào gan, tại đây nó được chuyển hóa và bài tiết ở dạng hòa tan trong nước ở mật. Huyết thanh bình thường chứa bilirubin hầu như chưa được liên hợp hoàn toàn. Nam giới có xu hướng có nồng độ cao hơn so với phụ nữ.

     Một nguyên nhân thường gặp của tăng bilirubin (không liên hợp) riêng lẻ là hội chứng Gilbert - một tình trạng lành tính, thường được chẩn đoán trên cơ sở biểu hiện tăng bilirubin huyết thanh không liên hợp khi không có tan máu như được thể hiện bởi số lượng hồng cầu lưới và haptoglobin bình thường: Hội chứng Gilbert có thể được xác định bằng xét nghiệm di truyền cho thấy tăng TATA lặp lại. Sự tan máu tăng có thể được quan sát thấy liên quan với việc uống rượu quá mức cũng như nhiều nguyên nhân khác.

     Vàng da được cho là có thể nhận biết trên lâm sàng với nồng độ bilirubin huyết thanh vượt quá 35 μmol/l nhưng trên thực tế điều này không đơn giản. Ở những người bị bệnh gan đã xác định, mức tăng bilirubin huyết thanh do tan máu thường lớn hơn mức bình thường được quan sát thấy.

     Có rất nhiều nguyên nhân làm tăng bilirubin nhưng có thể được chia khái quát thành các nhóm sau:

• Không liên hợp:

◦◦ Tăng sản xuất bilirubin;

◦◦ Không vận chuyển bilirubin.

• Liên hợp:

◦◦ Không vận chuyển bilirubin;

◦◦ Tổn thương tế bào gan;

◦◦ Tắc nghẽn đường mật.

 

4. Phosphatase kiềm

Phosphatase kiềm (ALP) thường hiện diện trong huyết thanh với đa số đến từ gan, xương, và ruột non. Trong thời kỳ mang thai (từ tuần thứ 8 trở đi), nhau thai sản xuất phosphatase kiềm và vào lúc đủ tháng nồng độ có thể đạt đến gấp 2 lần bình thường. Tăng hoạt tính do bệnh chủ yếu gây nên bởi bệnh về gan hoặc xương. Tắc nghẽn đường mật dẫn đến tăng sản xuất phosphatase kiềm bất kể vị trí tắc nghẽn. Trong bệnh về xương, sự tăng thứ phát do hoạt tính của nguyên bào xương trong các bệnh như bệnh Paget, di căn và nhuyễn xương. Về mặt kinh điển, phosphatase kiềm đã được sử dụng trong bệnh gan để phân biệt viêm gan cấp với tắc nghẽn đường mật trong trường hợp vàng da.

5. Gamma-glutamyl transpeptidase

Gamma-glutamyl transpeptidase (GGT) hiện diện trong huyết thanh và phân bố rộng rãi trong cơ thể. Ở gan, GGT được tìm thấy trong tế bào gan và biểu mô đường mật. Trong bối cảnh lâm sàng, nó được sử dụng để phát hiện bệnh đường mật và việc uống rượu quá mức. Trong bối cảnh bệnh đường mật, nó không cho dấu hiệu nào về vị trí tắc nghẽn. 

     Sự tăng hoạt tính của GGT thường được sử dụng để phát hiện lạm dụng rượu. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là GGT không tăng ở 1/3 số người nghiện rượu nặng và sự tăng hoạt tính có thể thứ phát do nhiều nguyên nhân khác. GGT có thể tăng liên quan đến bệnh gan, sử dụng một số thuốc và các bệnh ngoài gan như viêm phổi và viêm tụy. Hoạt tính của GGT cũng tăng lên ở nam giới, người béo phì và người cao tuổi. Trong trường hợp tăng hoạt tính của GGT xảy ra do uống rượu quá mức, nồng độ GGT thường trở lại bình thường khi ngừng uống rượu trong vòng 3 tháng trừ khi có bệnh gan từ trước.

6. Albumin

Albumin là protein chính được gan tổng hợp. Dinh dưỡng, chức năng gan và các thay đổi về hormon ảnh hưởng đến sự sản xuất albumin. Hai chức năng chính của albumin là duy trì áp lực keo và vận chuyển các chất trong máu như hormon và thuốc.

     Albumin thấp là một đặc điểm của bệnh gan mạn tính tiến triển. Điều này liên quan đến giảm tỷ lệ tổng hợp albumin do gan bị tổn thương. Đáng lưu ý là giảm albumin liên quan đến tiên lượng kém ở bệnh nhân xơ gan.

7. Mô hình xét nghiệm chức năng gan trong bệnh gan do rượu

a. Uống rượu quá mức

Hoạt tính của GGT trong huyết thanh là một chỉ điểm được sử dụng rộng rãi đối với việc lạm dụng rượu. Việc sử dụng nó có thể bổ sung cho tiền sử uống rượu nhưng nó không phải là một xét nghiệm đặc hiệu đối với việc uống rượu quá mức. Hoạt tính của GGT có thể tăng do nhiều lý do khác ngoài uống rượu quá mức bao gồm sử dụng một số thuốc, tăng lipid máu và như một sự thay đổi bình thường trong dân số khỏe mạnh.

     Uống rượu nhiều liên tục dẫn đến GGT tăng, trong khi một đợt uống rượu nhiều không làm tăng hoạt tính của GGT. Tăng GGT gấp 2-4 lần thường được quan sát thấy ở những người uống nhiều rượu nhưng nó có thể tăng gấp 20 lần giới hạn trên của mức bình thường. Hoạt tính của GGT trong huyết thanh có thể mất 1-2 tháng để giảm xuống sau khi bắt đầu kiêng rượu.

     Một số bài báo đã báo cáo ảnh hưởng của việc kết hợp một số biện pháp để cải thiện độ chính xác chẩn đoán của các xét nghiệm nhằm chẩn đoán những người uống rượu quá mức. Những mô hình này đã kết hợp GGT, ALP và đại hồng cầu. Mặc dù chúng đã cho thấy độ chính xác được cải thiện trong một lần xét nghiệm duy nhất, chúng tương đối không nhạy trong việc sàng lọc những người khỏe mạnh. Tiền sử lâm sàng hữu ích hơn kết quả phòng xét nghiệm trong việc phát hiện những người uống rượu quá mức .

b. Gan nhiễm mỡ do rượu

Sự hiện diện của mỡ trong gan (gan nhiễm mỡ) là dạng thường gặp nhất của bệnh gan liên quan đến rượu. Bệnh nhân có thể có gan to, nhạy cảm đau  nhưng hầu hết thường không có triệu chứng. Nó thường đi kèm với tăng GGT và tỷ lệ AST : ALT lớn hơn 2 : 1. Các xét nghiệm chức năng tổng hợp (albumin, thời gian đông máu) là bình thường. Gan nhiễm mỡ thường sẽ hồi phục trong vòng vài tháng kiêng rượu và các bất thường liên quan trong xét nghiệm gan sẽ trở lại bình thường.           

c. Viêm gan do rượu

Viêm gan do rượu là một tình trạng nghiêm trọng và có tỷ lệ tử vong đáng kể, 40% ở dạng nghiêm trọng . Hầu hết các bệnh nhân sẽ uống rượu nhiều trong dịp nào đó và không phải là ít gặp trường hợp bệnh nhân sẽ ngừng uống trước khi khởi phát các triệu chứng. Bệnh biểu hiện với vàng da, giảm cân và dấu hiệu suy gan. Sốt thường gặp và có thể đi kèm với tăng số lượng bạch cầu trung tính. Tăng biliribin huyết tương và có thể cao hơn 500 mmol/l (29 mg/dl) trong những trường hợp rất nặng. Aminotransferase chỉ tăng trung bình và hiếm khi cao hơp 4 lần giới hạn trên của mức bình thường . Phosphatase kiềm chỉ tăng trung bình. Albumin huyết tương thường thấp, phản ánh chức năng tổng hợp kém và dinh dưỡng kém trong một số trường hợp. Cuối cùng, bệnh đông máu là thường gặp, đại diện cho sự thất bại tổng hợp và được chứng minh bởi thời gian prothrombin tăng.

d. Xơ gan thứ phát do uống rượu quá mức

Xơ gan xảy ra trong bối cảnh uống rượu quá mức kéo dài. Nó được đặc trưng bởi sự thay thế mô gan khỏe mạnh bởi mô sẹo và các nốt tái tạo. Sự thay đổi cấu trúc này dẫn đến các thay đổi về chức năng. Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể không có triệu chứng và kết quả xét nghiệm gan có thể bình thường . Khi bệnh tiến triển, các xét nghiệm có thể cho thấy dấu hiệu suy giảm chức năng gan bao gồm tăng bilirubin, thời gian prothrombin và giảm albumin huyết tương.

     Việc điều trị hiệu quả nhất là kiêng rượu và sự suy giảm chức năng gan có thể được cải thiện ngay cả trong trường hợp xơ gan tiến triển.

 

8. Xét nghiệm chức năng gan ở những người không có triệu chứng

Xét nghiệm chức năng gan là xét nghiệm thông thường và có thể chỉ ra bệnh nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhiều người có xét nghiệm gan bất thường sẽ không có quá trình bệnh đặc biệt. Trong một nghiên cứu kiểm tra các xét nghiệm chức năng gan trong một cơ sở chăm sóc ban đầu ở Anh, 40% bệnh nhân được xét nghiệm đã có những bất thường được tìm thấy ở một hoặc nhiều chất phân tích . GGT là xét nghiệm bất thường được tìm thấy thường xuyên nhất. Mặc dù đã có nghiên cứu mở rộng về tiền sử, xét nghiệm máu và chụp hình ảnh, không có nguyên nhân nào có thể được tìm thấy ở 45% bệnh nhân.



Home Page | Tài liệu chuyên môn | Bạn cần biết | Thông tin hội nghị | Liên hệ

Copyright © 2005 Dr. Phạm Thị Thu Thủy - Khoa gan - Trung tâm Y khoa Tp. Hồ Chí Minh